Máy bay ném bom hạt nhân có thể bay liên tục 16.000 km từ Hoa Kỳ

Một chiếc B-36 chuẩn bị cất cánh. Video: Không quân Hoa Kỳ.

Kể từ năm 1941, Hoa Kỳ đã quyết định tạo ra Máy bay Hòa bình B-36. Đây là một máy bay ném bom có ​​thể được phóng từ Hoa Kỳ, vượt Đại Tây Dương để tấn công lãnh thổ của Đức Quốc xã và quay trở lại lực lượng Đồng minh để đổ bộ vào các căn cứ châu Âu mà không cần tiếp tế. Mặc dù theo WATM, dòng máy bay B-36 không đạt được mục đích ban đầu nhưng nó đã trở thành vũ khí đầu tiên mang lại cho Mỹ khả năng tấn công hạt nhân và răn đe chiến lược.

Nguyên mẫu đầu tiên của B-36 được chế tạo bởi Convair Corporation vào năm 1945 ngay sau khi phát xít Nhật đầu hàng. Nó thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào ngày 8 tháng 8 năm 1946, khoảng một năm sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Ba năm sau, máy bay ném bom B-36 được đưa vào phục vụ Không quân Mỹ.

Máy bay ném bom B-36 là loại máy bay lớn nhất vào thời điểm đó, với chiều dài gần 50 mét, sải cánh 70 mét và cao 14 mét, nặng 139 tấn, ban đầu nó được trang bị 6 động cơ cánh quạt có khả năng mang theo 43 tấn nhiên liệu, vũ khí hạt nhân và thông thường. Vũ khí và 16 súng tự vệ M24 20mm. Máy bay có tốc độ tối đa 700 km / h và tầm bay hơn 16.000 km.

Kể từ phiên bản B-36D, Convair bổ sung thêm 4 động cơ GE J47-19 ở cuối cánh. Toàn bộ chiếc B sau đó, Phi đội 36 cũng được trang bị cấu hình động cơ này, làm nên lịch sử của “Peacemakers”. Máy bay ném bom tiên tiến nhất từng được thiết kế.

Động cơ cánh quạt 6 piston và 4 động cơ phản lực cung cấp 40.000 mã lực trong thời gian ngắn, giúp B-36 giảm khoảng cách cất cánh và giúp tiếp cận mục tiêu trong giai đoạn tăng tốc để tránh bị pháo phòng không bắn. . Hạ thấp .—— Ở chế độ hành trình, động cơ phản lực sẽ được tắt để tiết kiệm nhiên liệu, và cửa trước của động cơ sẽ được kích hoạt để giảm lực cản và ngăn các vật thể lạ xâm nhập. -Mỹ đã cử tổng cộng 384 chiếc B-36 để tạo lực lượng răn đe chiến lược vì chúng có thể mang một số lượng lớn bom hạt nhân và bay từ Mỹ đến Leningrad của Liên Xô để mở cuộc tấn công. Các vũ khí hạt nhân sau đó đã trở lại mà không làm giảm nhiên liệu của châu Âu.

NB-36 (tiền thân) được trang bị một lò phản ứng hạt nhân và máy bay hộ tống B-50. Ảnh: United States Air Force.

Mặc dù nó được phục vụ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh khốc liệt, may mắn thay, máy bay ném bom B-36 chưa bao giờ được triển khai chiến đấu. Thực tế, chiếc máy bay ném bom này chỉ thả bom trong quá trình huấn luyện hoặc khi gặp sự cố. Vào tháng 2 năm 1950, sau khi phi hành đoàn phát hiện ra rằng ba động cơ đang bốc cháy, một chiếc B-36 hẳn đã thả một quả bom hạt nhân không hoạt động Mk 4 xuống vùng biển ven biển British Columbia, Canada. Sau đó, phi hành đoàn nhảy dù và thoát ra ngoài.

Năm 1957, một chiếc B-36 khác đã vô tình thả bom nhiệt hạch Mark 17 và tương đương 10 triệu tấn thuốc nổ TNT gần Albuquerque, New Mexico. đến từ Mỹ. May mắn thay, mặc dù chất nổ chính được phát nổ trong một vụ va chạm với mặt đất, nhưng lõi của quả bom vẫn chưa được kích hoạt.

B-36 cũng là máy bay được lựa chọn cho dự án này. lò phản ứng. Phản ứng hạt nhân trên không của Hoa Kỳ. Trong giai đoạn 1942-1958, Lục quân và Không quân Hoa Kỳ đã chi rất nhiều tiền để nghiên cứu và thử nghiệm khái niệm này.

Peacemaker được chuyển đổi sang động cơ hạt nhân NB-36. Mặc dù được trang bị lò phản ứng hạt nhân nhưng 47 chuyến bay thử nghiệm của NB-36 chỉ sử dụng động cơ và nhiên liệu thông thường. Những tiến bộ trong thiết kế máy bay đã khiến khái niệm máy bay ném bom hạt nhân trở nên lỗi thời, và dự án NB-36 đã bị ngừng vào năm 1958.

Dòng B-36 cũng được sử dụng trong dự án “máy bay chiến đấu ký sinh”, trong đó lực lượng hòa bình mang theo một máy bay chiến đấu hộ tống vì nó tấn công các mục tiêu tầm xa và phải đối phó với nhiều hệ thống phòng không trên đường bay. Khi bị phát hiện, nó sẽ thả một võ sĩ chân không để tiêu diệt kẻ thù, rồi tiếp tục di chuyển về phía mục tiêu.

B-36 bị tiêm kích ký sinh trong bụng, ảnh: USAF.

Nhưng sự ra đời của công nghệ tiếp nhiên liệu không đối không đã khiến ý tưởng này và các máy bay ném bom khổng lồ như B-36 trở nên lỗi thời. Hoa Kỳ có thể chế tạo nhiều máy bay nhỏ có thể cất cánh từ căn cứ, tiếp nhiên liệu bên ngoài phạm vi hỏa lực phòng không của đối phương, sau đó tiến vào không phận của đối phương.

Máy bay ném bom B-36 cũng không thích hợp cho các nhiệm vụ ném bom thông thường. Kích thước lớn và tốc độ thấp khiến nó dễ dàng bị các máy bay đánh chặn của Liên Xô như MiG-15 bắn hạ. Hoa Kỳ bãi bỏ mặt trận B-36 vào năm 1959 chỉ sau 10 năm phục vụ.

Leave a comment