Hải quân Mỹ có nhiều vũ khí hiện đại hơn các máy bay chiến đấu trong Thế chiến II, nhưng cũng có nhiều vũ khí được coi là thảm họa. Điển hình là ngư lôi Mark 14.
Quá trình thiết kế Mark 14 bắt đầu vào năm 1931 để thay thế cho WWI Mk.10. Ngư lôi nên là vũ khí. Vào thời điểm đó, Hải quân Mỹ là khí tài chống hạm tiên tiến và mạnh nhất Ảnh các quan chức Hải quân Mỹ bên cạnh súng trường phóng ngư lôi Mark 14: Hải quân Mỹ — Mark 14 nặng gần 1,5 tấn, dài 6,2m, đường kính 530mm gắn động cơ hơi nước Ngư lôi có tầm bắn hơn 8 km và tốc độ tối đa 85 km / h. Nó được trang bị một đầu đạn nổ mạnh nặng 292 kg, được thiết kế đặc biệt cho vụ nổ của tàu chiến đối phương. Theo lý thuyết, khi được kích nổ, Mark 14 có thể tạo ra sóng xung kích cực lớn, phá hủy mạn tàu chiến hoặc tạo một lỗ lớn hơn để đánh chìm tàu đối phương một cách nhanh chóng.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tàu ngầm Mỹ chỉ được trang bị một số ngư lôi Mark 14. Do chi phí chế tạo cao, giá thành của mỗi quả ngư lôi lên tới 10.000 USD, tương đương với 171.000 USD ngày nay. Họ đã sử dụng triệt để pháo trong trận chiến, nhưng chỉ huy vẫn ra lệnh cho ngư lôi Mark 14 tiến vào các tình huống cần thiết, chẳng hạn như đối mặt với tàu khu trục chiến đấu hoặc mở cuộc tấn công bất ngờ vào biên giới của tàu. Phản đối. Tuy nhiên, sau khi Chuẩn Đô đốc Harold Stark (Harold Stark) cho phép sử dụng không hạn chế Mark 14 trong chiến đấu, chỉ huy tàu ngầm đã nhanh chóng báo cáo một loạt vấn đề với ngư lôi.
Ngày 23 tháng 7 năm 1943, tàu ngầm “Tinosa” đã phát hiện ra tàu chở dầu “Southeast Maru” của Nhật Bản khi tuần tra ở Thái Bình Dương. Đây được coi là mục tiêu có giá trị cao và rất dễ bị đánh chìm vì không có tàu chiến. Bị giam giữ.
Tàu ngầm Mỹ đã cố đánh chìm tàu chở dầu “Nannan Maru” trong một ngày, nhưng không thành công. Chỉ huy tàu ngầm đã ra lệnh phóng 15 trong số 16 chiếc Mark 14, 12 chiếc trong số đó trúng mục tiêu, nhưng chỉ một chiếc phát nổ. Sau đó, tàu chở dầu Tonan Maru trốn thoát với tổn thất tối thiểu.
Trong một lần khác, Hải quân Hoa Kỳ Seawolf đã phát hiện ra một tàu vận tải 8.000 tấn của Nhật Bản ở Vịnh Talomo ở Philippines và phóng bốn quả ngư lôi Mark. 14. Trên một chuyến tàu cố định. Tuy nhiên, họ hoặc đánh trượt hoặc không bùng nổ. Thuyền trưởng Mỹ phải ra lệnh đổ đầy ngư lôi Mark 10 cũ, và mục tiêu bị tiêu diệt sau hai lần khai hỏa.
Một số tàu của Nhật Bản dường như đã lắp ngư lôi Mark 14 chưa nổ vào thân tàu và quay trở lại cảng. — Tàu ngầm Usul bị đánh chìm bởi ngư lôi của chính nó vào năm 1944. Ảnh: US Navy.
Vấn đề nghiêm trọng nhất là Mark 14 vẫn có thể phát nổ chính xác sau khi chạy, lượn vòng và lặn xuống tàu ngầm chính. Bắn một viên đạn. Hiện tượng này xảy ra khi viên đạn bay qua thay vì trúng mục tiêu, có thể do lực cản và lực đẩy không cân bằng, ngay cả khi vỏ ngư lôi bị bẻ cong. Có 24 tàu ngầm của Mỹ gặp sự cố này, hai trong số đó đã bị đánh chìm, số còn lại gặp khó khăn trong việc tránh ngư lôi sắp tới. Nguyên nhân dẫn đến sự cố mạch là do con quay hồi chuyển có vấn đề khiến ngư lôi không thể đi thẳng. Mark 14 đôi khi di chuyển xuống dưới mục tiêu do trục trặc của thiết bị đo tiếng vang, và viên đạn không nổ do thiết bị nổ điện từ và cơ khí bị trục trặc.

Ngư lôi Mark 14 sau đó được sửa đổi hoàn toàn và trở thành vũ khí lợi hại của tàu ngầm Mỹ và bị giải thể hoàn toàn vào năm 1980. Nó được thay thế bằng phiên bản Mark 48 được phát triển từ những năm 1960 và được đưa vào sử dụng năm 1971.
Duy Sơn (theo WATM)