
Tên lửa AGM-69 đang được thử nghiệm. Video: Không quân Hoa Kỳ.
Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã phát triển bộ ba răn đe chiến lược, bao gồm tên lửa đạn đạo xuyên lục địa trên mặt đất, tàu ngầm tên lửa đạn đạo và máy bay ném bom B-52. Quả bom hạt nhân. Trong số 3 chiếc này, máy bay ném bom B-52 là vũ khí dễ bị tấn công nhất do Liên Xô có mạng lưới phòng không dày đặc, buộc Mỹ phải phát triển vũ khí để cải thiện khả năng sống sót của phi đội. chiến lược.
Trong những năm 1960, độ chính xác thấp của vũ khí không đối đất đã khiến Hoa Kỳ quyết định phát triển tên lửa mang đầu đạn hạt nhân để trấn áp mạng lưới phòng không của Liên Xô. Tên lửa hạt nhân chiến thuật có thể công phá hoàn toàn trận địa phòng không uy hiếp B-52, dọn đường cho máy bay ném bom Mỹ vượt qua hệ thống phòng không của đối phương.
Nhiệm vụ này ban đầu được thiết kế cho tên lửa hạt nhân AGM-28 Hound. Tuy nhiên, khi nó dài tới 13 mét và nặng hơn 4 tấn thì nó quá lớn. Điều này ngăn cản hầu hết các máy bay Mỹ được trang bị hoặc mang rất ít tên lửa AGM-28 trong một lần hoạt động.
Không quân Mỹ phải nhanh chóng phát triển vũ khí thay thế cho AGM-28 để duy trì khả năng sống sót. Câu trả lời cho Phi đội B-52 là tên lửa AGM-69 SRAM, đây là tên lửa đầu tiên được đưa vào trang bị vào năm 1972.
Mỗi chiếc SRAM chỉ dài 4,3 mét và nặng 1,1 tấn, điều này cho phép máy bay ném bom B-52 mang theo nhiều đạn trong khoang chứa bom. Ngoài việc chế áp hệ thống phòng không Liên Xô, AGM-69 SRAM còn có thể được sử dụng để tấn công các mục tiêu chiến lược tương tự như bom hạt nhân thông thường.
Tên lửa SRAM chuẩn bị cho B-52 trong cuộc tập trận năm 1984. Ảnh: United States Air Force.
Tầm hoạt động của AGM-69 là 80 đến 160 km, tùy thuộc vào đường bay và tốc độ tối đa là 4.300 km / h. Chức năng địa hình của SRAM vẫn còn sơ khai, nhưng nó cũng cải thiện khả năng sống sót của tên lửa. Dữ liệu mục tiêu sẽ được nạp vào đạn trước hoặc trong khi thực thi nhiệm vụ.
Sau khi ra khỏi máy bay, tên lửa sẽ tự động bay đến mục tiêu và có thể bắn trúng mục tiêu trong bán kính 400m. Không quân Mỹ coi đây là một sai sót có thể chấp nhận được vì đầu đạn hạt nhân W69 của SRAM có thể đạt trọng lượng 210 kg, gấp 14 lần quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima năm 1945. AGM-69 ban đầu được thiết kế đặc biệt cho máy bay ném bom B-52G và B-52H, sau đó xuất hiện trên máy bay ném bom chiến lược FB-111 và B-1B. Mỗi chiếc B-52 có thể mang 20 viên đạn SRAM trong khoang chứa bom và dưới cánh, trong khi một chiếc B-1B có thể mang tới 24 tên lửa trong thân tàu.
SRAM là một loại vũ khí quân sự hữu ích trên không, Hoa Kỳ phải chăm sóc phòng không Liên Xô trong mười năm. Tuy nhiên, sự xuất hiện của tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân AGM-86B vào năm 1982 đã khiến SRAM trở nên lỗi thời.
AGM-86B có tầm bắn lên tới 2.400 km, khiến cho B-52 và B-1B có thể bắn đạn vượt xa tầm bắn của tên lửa phòng không Liên Xô. Sự sụt giảm điện áp vào cuối Chiến tranh Lạnh cũng làm giảm đáng kể hiệu quả của SRAM.
Phiên bản SRAM của bộ kích nổ và động cơ không được sử dụng trong biến tần. Ảnh: United States Air Force.
Năm 1990, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Dick Cheney (Dick Cheney) kêu gọi loại bỏ toàn bộ tên lửa SRAM khỏi máy bay chiến đấu vì họ lo lắng về sự an toàn của vũ khí trong trường hợp hỏa hoạn. Đầu đạn W69 được thiết kế với tiêu chuẩn và công nghệ lạc hậu, nếu cháy sẽ rò rỉ rất nhiều chất phóng xạ.
Năm 1993, kho tên lửa SRAM của Mỹ rơi vào tình trạng đáng lo ngại. Ngoài đầu đạn W69 không an toàn, do không được bảo dưỡng nên động cơ tên lửa cũng xuống cấp trầm trọng, thậm chí xuất hiện nhiều vết nứt.
Những tên lửa này có nguy cơ phát nổ ngay lập tức. Rời bệ phóng, phá hủy máy bay ném bom và làm đổ chất phóng xạ. Sau Chiến tranh Lạnh, do ngân sách quốc phòng cắt giảm mạnh, Không quân Mỹ đã loại bỏ và phá hủy toàn bộ tên lửa AGM-69 SRAM trước cuối năm 1993.
LãLinh (Theo Drive)