
Xe tăng của Israel đã bị phá hủy vào ngày đầu tiên của Chiến tranh Yom Kippur. Vào ngày 6 tháng 10 năm 1973, quân đội Ai Cập và Syria đã phát động một cuộc tấn công chung chống lại các căn cứ của Israel ở Bán đảo Sinai và Cao nguyên Golan, gây ra Chiến tranh Yom Kippur. . Theo “Lợi ích quốc gia”, sự hỗ trợ của Liên Xô và Hoa Kỳ trong cuộc chiến này gần như buộc họ phải phát động chiến tranh hạt nhân.
Quân đội Israel bất ngờ bị đánh bại, bỏ lại quân đội Ai Cập. ‘Đẩy sâu. Bán đảo Sinai và Syria bị đẩy lùi từ Cao nguyên Golan, hai khu vực mà trước đây họ từng chiếm đóng bởi Syria. Xe bọc thép và bộ binh Israel đang tiếp cận Damascus, thủ đô của Syria. Tại bán đảo Sinai, Lực lượng Quốc phòng Israel cũng đã đi qua Kênh đào Suez vào ngày 15 tháng 10 và bất ngờ chiếm một phần bờ biển Ai Cập, cắt đứt đường tiếp tế của họ trên lãnh thổ Israel. Nỗ lực giải quyết đình chiến không thành công và nguy cơ thất bại của các đồng minh Ả Rập đối với Israel đã khiến nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev gửi thông điệp tới Tổng thống Mỹ Richard Nixon, người cảnh báo rằng nếu Washington Nếu không hợp tác, Moscow sẽ có hành động đơn phương. Giải quyết vấn đề. Khi các báo cáo cho thấy Sư đoàn đổ bộ không quân Liên Xô đang trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, bầu không khí khủng hoảng bao trùm Nhà Trắng. Liên Xô gần như tăng gấp đôi số lượng tàu chiến ở Địa Trung Hải lên 100 chiếc. Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô Andrei Grechko (Andrei Grechko) cũng đề xuất gửi quân tới chiếm Cao nguyên Golan để cứu Syria. — Mặc dù Hoa Kỳ không muốn bắt đầu một cuộc chiến, Hoa Kỳ cũng lo lắng rằng họ sẽ mất uy tín và ảnh hưởng trong khu vực. Nếu không có hành động cụ thể nào được thực hiện, Trung Đông sẽ giàu dầu mỏ. Nhà Trắng tin rằng Liên Xô đã sẵn sàng vượt qua lằn ranh đỏ của Mỹ. Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger nhớ lại: “Chúng tôi quyết tâm chống lại sự can thiệp của Liên Xô vào Trung Đông, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực khi cần thiết.” Hình ảnh về các tàu chiến Liên Xô ở Địa Trung Hải kể từ năm 1973: Wikipedia. Vào tối ngày 24, Hoa Kỳ đã nâng “cấp độ phòng thủ” (DEFCON) lên thế giới cấp ba của tất cả các căn cứ gần Địa Trung Hải. DEFCON 3 đã được xác định là cao hơn mức sẵn sàng chiến đấu thông thường, đòi hỏi Không quân Hoa Kỳ phải huy động lực lượng chiến lược trong vòng 15 phút sau khi ban hành lệnh.
Đây cũng là một cảnh báo cấp độ. Nhìn chung, nó là cao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, Hoa Kỳ đã từng trở thành DEFCON 2 để chuẩn bị cho chiến tranh hạt nhân, nhưng nó không được áp dụng trên toàn cầu.
Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu huy động lính nhảy dù và máy bay ném bom từ đảo Guam để chuẩn bị cho các cuộc xung đột quy mô lớn, thậm chí là chiến tranh hạt nhân. Nhà sử học Abraham Rabinovich đã viết: “Ở Địa Trung Hải, căng thẳng hạm đội ở cả hai phía là điều hiển nhiên.” – Các tàu khu trục Liên Xô thường xuyên theo dõi nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ. Các máy bay chiến đấu trên quần đảo Mỹ cũng thuộc hạm đội Liên Xô, sẵn sàng tiến hành một cuộc tấn công. Cả hai tàu ngầm đều liên tục theo dõi kẻ thù. Nhà lãnh đạo Liên Xô rất ngạc nhiên trước phản ứng mạnh mẽ từ Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, người đứng đầu chính phủ Liên Xô, Nikolai Podgorny, đã nhớ lại: Thật khó hiểu tại sao Washington lại rất phấn khích. Hỗ trợ Ai Cập và Syria. Mặc dù Moscow đã sẵn sàng, nhưng họ đã không triển khai quân tới Trung Đông. Vào tháng 10 năm 1973, cuộc xung đột giữa Israel và Ả Rập đã kết thúc trong một lệnh ngừng bắn.