Vào lúc 7:10 sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967, 16 máy bay huấn luyện Fouga Magister của Không quân Israel đã cất cánh khi căng thẳng giữa Israel và Nhóm Ả Rập ngày càng gia tăng. Họ bay dọc theo một tuyến đường quen thuộc và liên lạc bình thường, điều này khiến Lực lượng Radar Liên hợp Ả Rập cho rằng đó là chuyến tuần tra thường xuyên của Israel vào buổi sáng.
5 phút sau, đơn vị sử dụng gần 183 máy bay chiến đấu các loại của Không quân Israel. Họ bay về phía tây đến Địa Trung Hải, và sau đó hạ xuống để tránh sự theo dõi của đối phương. Đây cũng là hoạt động bất ngờ.
Các radar của Ai Cập, Syria và Vương quốc Jordan đã theo dõi máy bay Israel trong hai năm. Họ nhìn thấy máy bay địch cất cánh vào mỗi buổi sáng và bay theo cùng một tuyến đường, sau đó biến mất khỏi tầm nhìn của radar và quay trở lại ngay sau đó. Các cơ sở.
Máy bay chiến đấu Mirage của Israel trong cuộc chiến 6 ngày. Ảnh: IAF .
Tuy nhiên, các máy bay chiến đấu Mirage và Super Mystere của Israel đã không quay trở lại căn cứ vào sáng 5/6/1967 mà đến Ai Cập. Chúng hoàn toàn vô hiệu hóa liên lạc vô tuyến và chỉ bay được gần 20 mét so với mực nước biển. Đây là sự khởi đầu của một trong những cuộc không kích thành công nhất trong lịch sử quân sự, mang lại lợi thế cho Israel. Trong cuộc chiến tranh sáu ngày với Liên đoàn Ả Rập.
Tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Bán đảo Sinai và triển khai quân đội ở biên giới với Israel. Các bước tương tự đã được thực hiện ở Jordan và Syria. Vào tháng 6, Israel nhận ra rằng cộng đồng quốc tế sẽ không có hành động nào để giải quyết căng thẳng.
Do dân số đông, lại bị bao vây bởi 3 khu vực nên Israel quyết tâm tung đòn phủ đầu vào đối thủ.
Một trong những yếu tố đảm bảo chiến thắng là khả năng làm chủ bầu trời. Tuy nhiên, Không quân Israel khi đó chỉ có 200 chiếc, hầu hết là máy bay chiến đấu mua từ Pháp. Đối thủ của họ là 600 máy bay của ba nước liên minh, trong đó có nhiều tiêm kích MiG-21 hiện đại do Liên Xô sản xuất. Israel cũng lo lắng về 30 chiếc Tu-16 Ai Cập, vì ai cũng có thể thả hàng chục tấn bom xuống lãnh thổ của mình.
Tel Aviv đã quyết định tung ra “Mivtza Moked” (Mivtza Moked) để tiêu diệt sức mạnh không quân Ả Rập. đất. Israel đã lên kế hoạch và thực hành trong nhiều năm. Các phi công đã nhiều lần thực hiện các cuộc tấn công mô phỏng vào các sân bay của Ai Cập ở sa mạc Negev, và các cơ quan tình báo đã thu thập thông tin về hệ thống phòng không của đối phương và việc triển khai chúng.
Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1967, Không quân Israel băng qua biển Địa Trung Hải và tiến vào không phận Ai Cập, đội radar của Jordan đã phát hiện ra một số lượng lớn máy bay bất thường và đưa ra cảnh báo cho quân đội thông qua các kênh mã hóa. Ai Cập. Tuy nhiên, người Ai Cập đã đổi mật khẩu trước một ngày mà không thông báo cho đồng minh.

Ngay cả khi người Ai Cập được cảnh báo, kết quả của trận chiến vẫn khó thay đổi.
“Không quân Israel đã chờ đợi từ 7h45 đến 8h45 theo giờ Ai Cập, khi sương mù buổi sáng ở đồng bằng sông Nile tan hết và đưa các phi công vào chỗ nghỉ ngơi, trong khi nhiều phi công và kỹ thuật viên vẫn đang tiếp tục làm việc”, Simon Dunstan viết , Tác giả của “Cuộc chiến sáu ngày: Chiến dịch Sinai”. Đội Israel cũng xuất hiện vào thời điểm đó. Các chỉ huy của Lực lượng vũ trang và Không quân Ai Cập rời trụ sở để kiểm tra máy bay vận tải. Họ cấm súng phòng không bắn để tránh vô tình bị bắn rơi máy bay chỉ huy.
Máy bay Israel đã leo lên độ cao 2,7 km trước khi tiếp cận mục tiêu của chiếc máy bay đang đậu hoàn hảo tại 10 căn cứ không quân của Ai Cập. Máy bay Israel gần như không bị hỏa lực phòng không và máy bay chiến đấu Ai Cập ném bom, bắn pháo phá đường băng không cho máy bay địch cất cánh, sau đó thoải mái ném bom, tiêm kích. Trong cuộc tấn công này, Israel đã sử dụng một vũ khí bí mật là bom bê tông để phá hủy đường băng. Chúng dựa trên một thiết kế của Pháp, sử dụng dù để ổn định tay lái, sau đó bắt đầu lực đẩy để lao xuống đường ray, từ đó tạo thành một hố sâu khó vượt qua trong thời gian ngắn. – Sáng ngày 5/6/1967, một máy bay ném bom của Ai Cập bị phá hủy trong bãi đậu xe. Ảnh: IAF .—— Cuộc tấn công đầu tiên chỉ kéo dài 8 phút. Khoảng 10 phút sau, Không quân Israel mở đợt tấn công thứ hai vào 14 căn cứ khác. Lực lượng hậu cần mặt đất của Israel nhanh chóng tiếp tế cho các máy bay trở về sau đợt tấn công đầu tiên.Họ tham gia vào cuộc tấn công thứ hai.
Sau 170 phút, Ai Cập mất 293 máy bay, bao gồm máy bay ném bom Tu-16 và Il-28 và 185 máy bay chiến đấu khác nhau. Israel chỉ mất 19 máy bay, chủ yếu do phòng không.
Lúc 12h45 ngày hôm đó, Israel tiếp tục tấn công các căn cứ không quân ở Syria, Jordan và Iraq. 2/3 số máy bay của Không quân Syria đã bị loại khỏi vòng chiến đấu, và 17 chiếc trong số đó bị tiêu diệt trên mặt đất. Jordan mất tất cả 28 máy bay đang hoạt động.
Sáu giờ sau cuộc tấn công đầu tiên, Israel đã quét sạch phần lớn Lực lượng Không quân Ả Rập Thống nhất. Khả năng làm chủ bầu trời đã giúp bộ binh Israel vấp phải sự chống trả quyết liệt ở bán đảo Sinai, Cao nguyên Golan và Jerusalem. Khi cuộc chiến kết thúc vào ngày 10 tháng 6, Liên quân Ả Rập mất tổng cộng 450 máy bay, trong khi Israel mất 46 chiếc. – “Đây là một trong những hoạt động trên không thông minh nhất trong lịch sử. Nó đã được chuẩn bị kỹ lưỡng và thực hiện đến lần thứ 2. Chuyên gia quân sự Michel Peck cho biết:” Các cuộc đột kích đã trở thành chuẩn mực cho các cuộc không kích phủ đầu nhằm tiêu diệt lực lượng đối phương. “.
Sơn (theo lợi ích quốc gia)